Một số côn trùng, nhện và động vậy gây hại trên cây trồng 01/08/2016

Nhìn chung côn trùng, nhện và động vật  hại cây trồng được chia thành các nhóm sau đây:

1. Nhóm sâu ăn lá

Gây hại bằng cách dùng miệng để ăn các bộ phận của cây trồng, nhất là lá do bị sâu ăn khuyết nên cây trồng sinh trưởng và phát triển kém, dẫn đến năng suất giảm, ngoài ra vết thương do sâu gây hại còn là cửa ngõ để nấm và vi khuẩn khác xâm nhập và gây hại. Đặc điểm gây hại của nhóm nầy là thiệt hại nhiều khi xảy ra nhanh, gây hại trên diện rộng, nhưng đễ phát hiện và nếu phát hiện sớm tương đối dễ phòng trừ. Trên lúa thiệt hại do nhóm sâu ăn lá như sâu cuốn lá, sâu keo… trên rau cải, đậu, dưa như sâu tơ, sâu xanh, sâu xám… trên cây ăn trái, tiêu, cà phê như sâu ăn lá, sâu ổ, câu cấu… để phòng trừ đối tượng nầy nên áp dụng các biện pháp tổng hợp như chọn giống thịch hợp, sạ, cấy trồng mật số thich hợp, không trồng dầy, gieo cấy đồng loạt, bón phân cân đối hợp lý, không dùng quá nhiều phân đạm, thăm đồng thường xuyên để phát hiện sớm và phòng trị kịp thời, có thể dùng các thuốc trừ sâu gốc Cúc, Carbamate, thuốc gốc sinh học như Abamectin, Emamectin, gốc lân hữu cơ ( tôn trọng thời gian cách ly) có tính tiếp xúc, vị độc, xông hơi như Sec Sàigòn 10, 25, 50EC, Sherzol 205EC, Comda gold 5WDG, Comda  250 EC, Sapen alpha 5EC, Sairifos 585EC, Sago super 20EC, Gà nòi 95SP…


2. Nhóm sâu đục thân, đục trái

Gây hại bằng cách đục vào thân, cành, ngọn, bông, trái, rễ, do bị sâu đục vào bên trong nên ảnh hưởng đến vận chuyển nước và các chất dinh dưỡng làm thân, cành, ngọn bị héo, bông, trái bị rụng ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến năng suất cây trồng. Đặc điểm của nhóm sâu đục thân là triệu chứng sớm khó phát hiện bằng mắt, một khi đã thể hiện ra bên ngoài thì tương đối khó phòng trừ lại tốn kém và ít hiệu quả. Do đó điều quan trọng là cần phát hiện sớm bằng cách thăm đồng thường xuyên đối với các giống dễ nhiễm và thời kỳ mà sâu đục thân thường xuất hiện. Trên lúa, có thể nhắc đến sâu đục thân, sâu đục bẹ… trên cây ăn trái nổi bật là sâu đục trái, sâu đục thân, đục cành, đục ngọn…, trên cà phê như mọt đục trái, xén tóc đục thân, cành, trên bắp như sâu đục thân, đục trái bắp, trên rau cải như sâu đục quả đậu, cà tím, cà chua…để phòng trừ đối tượng nầy cần áp dụng các biện pháp tổng hợp như nêu trên, trong đó chú trọng biện pháp giống và cần thăm đồng thướng xuyên để phát hiện sớm khi bướm mới xuất hiện hoặc sâu non mới chớm và phòng trị kịp thời, nếu phát hiện trể, khi sâu đã đục sâu vào bên trong việc phòng trừ ít hiệu quả và tốn kém vô ích. Về thuốc cần dùng thuốc có tính năng lưu dẫn, thấm sâu hoặc xông hơi như Diaphos 50 EC, 10G (Diazinon), Gà nòi 95SP, 4G(Cartap) hay Sairifos 585EC… nếu dùng sớm để trừ bướm hay sâu non có thể dùng các thuốc trừ sâu ăn lá như nói bên trên. Chú ý khi dùng nên chú ý thời gian cách ly.


3. Nhóm chích hút

Đây là nhóm gây hại phổ biến và đa dạng nhất trên nhiều loại cây trồng và cũng là nhóm khó phòng trị nhất bao gồm các loại rầy, rệp, nhện hại, bọ trĩ… Đặc điểm gây hại của nhóm chích hút là thường gây hại vào mùa khô, thời tiết nắng nóng, khô hạn và trên các mô mềm như trái, lá, thân, cành còn non, ngoài việc chích hút nhựa, côn trùng và nhện hại còn bơm độc tố vào vết chích hút và giúp lan truyền bệnh virus. Trên lúa có thể kể đến bọ trĩ, rầy nâu, rầy xanh, rầy bông, nhện gié, bọ xít hôi, bọ xít đen… trên tiêu cây ăn trái: Các loại nhện đỏ, nhện vàng, rầy chổng cánh, nhện lông nhung,  rầy bông, rầy mềm, rệp sáp, bọ trĩ… trên cà phê: rêp sáp, rệp vẩy nâu, rệp vẩy xanh, rầy mềm, rệp dinh, nhện đỏ… Trên tiêu rệp sáp, rệp sáp gốc, rầy mềm, rệp dinh, nhện đỏ… trên rau cải: Nhện đỏ, bọ trĩ, rầy mềm, rệp sáp… Để phòng trị nhóm nầy, cũng nên áp dụng các biện pháp tổng hợp, chú ý thời vụ canh tác và giống. Về thuốc BVTV nên chú ý thuốc có tính tiếp xúc, lưu dẫn, thấm sâu và xông hơi thuốc nhóm Cúc tổng hợp, Carbamate, Lân hữu cơ, tổng hợp sinh học như Sairifos 585EC, Comda gold 5WG, Saromite 57EC, Butyl 10WP, Mipcide 20 EC, Sago super 20EC, 3G, Schezgold 500 WG, Sagometro 500WG đặc biệt thuốc có tính xua đuổi và thay đổi tập tính sinh hoạt như đẻ trứng, chích hút như dầu khoáng SK Enspray 99EC là rất quan trọng. Một điều quan trọng cần chú ý la khi phun cần chú ý chỉnh bét phun cho mịn hạt và cần phun nhiều nước.

4. Tuyến trùng

Tuyến trùng là dịch hại phổ biến còn thấy trên nhiều cây trồng khác như tiêu, cà phê, các loại cây ăn trái, rau, củ quả, dưa, đậukhác với sâu, bệnh hại, triệu chứng dễ thấy và sâu, bệnh dễ nhận diện và có thể phòng trừ sớm. Tuyến trùng ngược lai, khó thấy do nhỏ lại sống trong đất, khi cây bị hại nặng triệu chứng mới lộ ra bên ngoài, khi ấy, phòng trị ít hiệu quả và tốn kém.

Tuyến trùng có kích thước rất nhỏ, mắt thường khó thấy, hầu hết có dạng hình giun, một số ít có dạng tròn hay bầu dục. Số loài tuyến trùng ước khoảng 1 triệu loài, tuy nhiên chỉ mới có khoảng  28.000 loài được mô tả. Tuyến trùng phá hại bằng cách dùng kim chích vào mô thực vật để hút nước và chất dinh dưỡng. Tuyến trùng sống và gây hại chủ yếu trong đất, tuy nhiên có loại có thể gây hại trên thân, lá…. Trên rễ triệu chứng đặc trưng là rễ có các nốt u sần, rễ cong queo, phát triển kém, nguyên nhân do tuyến trùng khi hút chất dinh dưỡng còn bơm  độc tố vào rễ, làm rễ bị nghẽn mạch và phù to tạo nên các nốt u sần khiến chức năng hấp thu nước và các chất dinh dưỡng bị ảnh hưởng khiến cây còi cọc… ngoài ra vết thương do tuyến trùng chích hút trên rễ, còn tạo điều kiện để vi khuẩn, nấm hại trong đất xâm nhập và gây hại khiến thiệt hại càng nặng nề hơn, thường các triệu chứng do tuyến trùng thể hiện chủ yếu trong mùa mưa, nhất là giữa hay cuối mùa mưa, đầu mùa nắng nguyên nhân do vào  thời điểm nầy đất khô hạn và cây thiếu nước, khi có nước và bón phân đầy đủ, cây có xu hướng phục hồi. Để phòng trừ tuyến trùng cần phải áp dụng các biện pháp tổng hợp như cần (1) Đào mương thoát thủy để hạn chế tuyến trùng lây lan, (2) tăng cường bón vôi (Vì tuyến trùng thích đất chua, pH thấp), (3) tăng cường bón phân hữu cơ hoai mục ( Vì trong phân hữu cơ hoai mục có nhiều vi sinh vật và tuyến trùng có ích), (4) trồng các cây có tính xua đuổi tuyến trùng như cây vạn thọ, mè, hướng dương…(5) cuối cùng nếu tuyến trùng gây hại trên diện rộng, có thể phải cần thiết dùng thuốc hóa học như Saburan 10 H, Diaphos 10G… chú ý thuốc trừ tuyến trùng thường rất độc, do đó cần cẩn thận khi dùng và nên chú ý tôn trọng thời gian cách ly.


Pratylenchus trên cà phê

5. Ốc Bươu vàng.

Đây là dịch hại ngoại lai, nguồn gốc từ Brazil, du nhập vào Việt Nam khoảng năm 1985, thiệt hại ghi nhận đầu tiên vào năm 1994 tại Kiên Giang và TP.HCM. OBV chỉ sống trong điều kiện nước ngọt, ruộng chua, phèn, độ pH <4 hay độ mặn > 0,6% ốc không sống được. OBV gây hại bằng cách cắn đứt mạ từ khi sạ đến khoảng 20 ngày sau. Ruộng sạ hại nặng hơn ruộng cây. OBV có con đực, cái phân biệt, tỷ lệ đực/cái khoảng 3/7. Vòng đời (đẻ – bắt cặp – đẻ lại) khoảng 3 tháng, tuy nhiên ốc có thể sống tới 3 năm.  Trứng được đẻ trên cao, ổ trứng có màu hồng tươi, khi sắp nở có màu hồng nhạt, 1 ổ có khoảng 150 – 300 trứng, tỷ lệ nở 90 – 95%. Trung bình 1 OBV cái có thể đẻ 500 – 1000 trứng/tháng. OBV sống và gây hại chủ yếu trong nước, tuy nhiên ốc cũng có thể sống trên cạn, trong điều kiện bất lợi (khô hạn) ốc vùi mình xuống đất, khi có điều kiện thuận lợi (ruộng có nước) ốc trồi lên cắn phá trở lại. OBV có thể gây hại suốt ngày đêm, tuy nhiên thường gây hại chủ yếu chiều – tối. Thiên địch của OBV là kiến, chim, chuột, vịt, rắn, cá… và con người.

Để phòng trị OBV cần phải áp dụng tổng hợp các biện pháp, phải làm liên tục, rộng khắp và làm sớm trước khi mùa vụ bắt đầu. Các biện pháp bao gồm đặt lưới chắn ở cống, bộng dẫn nước, vét rãnh, bắt ốc bằng tay, cắm cọc thu gom trứng, cày bừa kỹ, cày sâu, đưa nước vào ruộng sớm (trước khi sạ) nhử ốc trồi lên rồi diệt, sau khi sạ không đưa nước vào ruộng sớm, chỉ giữ ruộng đủ ẩm, sử dụng thuốc diệt ốc như DIOTO 250EC, Dioto 830WG ( pha nước phun) hay Tatoo 150B, Bosago 12AB ( rải)… sau thu hoạch (nếu điều kiện cho phép) thả vịt ăn ốc để hạn chế lứa sau. Cần lưu ý nếu phòng trị bằng thuốc hoá học nên theo đúng hướng dẫn trên nhãn và có thể pha thêm ít rỉ đường để tăng tính dẫn dụ.


6.Chuột hại

Chuột l dịch hại quan trọng trn cy trồng nhất là lúa, rau, cây ăn trái. Chuột có mắt không tốt lắm, không nhìn thấy xa, không phân biệt được màu sắc, bù lại chuột có khả năng cảm nhận mùi, vị thức ăn rất tốt. Chuột rất thính tai, rất nhanh nhẹn, leo trèo, đào đất nhanh, bơi lội dễ dàng, chủ yếu phá hại về đêm. Chuột  không có răng nanh, nhưng răng cửa mạnh v mọc di. Chuột có tính đa nghi, hay nghi ngờ chổ lạ, thức ăn lạ, thường sống trong hang, nhất là ở bờ ruộng lúa. Khi lúa chín, chuột rời hang, vào sống trong ruộng, nhiều khi làm tổ trên cây lúa. Chuột không thích nước, do đó, năm nào hạn nặng, năm đó chuột nhiều. Khi chuột chưa trưởng thành, khó phân biệt chuột đực, chuột cái bằng mắt.  Trn đồng khi thiếu thức ăn, do bệnh tật hoặc quá đông đúc, chuột sẽ di cư sang nơi khác. Thời gian sống của chuột khoảng 1 năm, trong đó chuột cái sống lâu hơn chuột đực. Chuột  ăn tạp, ăn chủ yếu thực vật xanh, ngoài ra chuột còn ăn cả cá con, ốc sên, ốc bươu vàng, cua… Thời gian trưởng thnh của chuột khá sớm. Sau khi đẻ xong, khoảng 1 -  2 tháng sau, chuột sẽ bắt cặp trở lại để đẻ tiếp lứa mới. Trung bình một năm chuột đẻ 4 – 6 lứa, mỗi lứa trung bình có 5 – 12 con.  Chuột chủ yếu gây hại vào ban đêm. Trên ruộng, chuột chủ yếu phá hại vào giai đoạn đòng – trổ. Nếu bị hại sớm, lúa có thể phục hồi, tạo ra dảnh ( tp) mới, nhưng khi chín sẽ không đều. Nếu bị hại muộn, lúa không phục hồi được, không cho năng suất.

Chuột có nhiều thiên địch như rắn, trăn, chim săn chuột, mèo, chó, bệnh hại… nhưng  địch quan trọng nhất của chuột chính là con người. Công tác diệt chuột cần làm sớm ngay từ đầu vụ, làm đồng loạt, liên tục, đều khắp và có sự tham gia gia của cộng đồng.

Phòng trị:

(1) Xác định thời vụ thích hợp, nên gieo trồng, thu hoạch đồng loạt, (2) Không nên trồng quá nhiều loại cây trồng trên đồng, (3) Vệ sinh đồng ruộng tốt, (4) Bảo vệ thiên địch của chuột, (5) Bẫy cây trồng: Trên mỗi cánh đồng, chọn vi mảnh ruộng, trên đó trồng sớm v trồng lúa thơm để hấp dẫn chuột, ruộng bẫy được rào nylon quanh ruộng, trong ruộng đặt lồng để bắt chuột. Cần thăm đồng thường xuyên để nhặt chuột, rắn… chui vào lồng và tu sửa khi cần thiết, (6) Dùng nước để hạn chế và giết chuột: Nếu có thể, giữ mức nước cao trong ruộng vào giai đoạn đòng – trổ để hạn chế chuột làm tổ ven bờ, (7) Tổ chức săn đuổi: bằng nhiều biện pháp như đào hang, đánh bẫy, xông khói, dùng chó săn  hay dùng máy cày quần bắt chuột, (8) Biện pháp xông hơi trừ chuột bằng đất đèn (khí đá), lưu huỳnh, đốt rơm trộn ớt khô, xông khói lưu huỳnh cũng khá hiệu quả, lại rẻ tiền, không gây ô nhiễm…(8) Đánh bã: Zinphos 20% vào theo liều khuyến cáo. Cần làm liên tiếp vài ngày, rồi thu hết bã độc, mang đi tiêu hủy, (9) Bắt chuột dùng làm thực phẩm: Đây là biện pháp trừ chuột rất hiệu quả, lại cải thiện thu nhập đáng kể. Thịt chuột rất ngon, có giá trị dinh dưỡng cao, là nguồn đạm bổ sung quí giá cho khu vực nông thôn có thu nhập thấp.

 

 

Tin cùng loại

Bệnh chết cây con (lở cổ rễ) là bệnh khá phổ biến đối với dưa hấu và nhiều loại cây trồng. Bệnh chết cây con đặc biệt phổ biến ở các vùng trồng chuyên canh, hoặc vùng chuyên trồng các cây rau màu trong nhiều năm. Ở những vùng ẩm thấp, vùng có thời tiết nóng ẩm thì bệnh thường nặng.

Cỏ mọc ở ruộng lúa gồm nhiều loại như cỏ cháo, chác, mác, mương, lồng vực, đuôi phụng… trong đó cỏ lồng vực và đuôi phụng là 02 đối tượng khó trừ, thường gây hại nghiêm trọng đến năng suất và chất lượng nông sản sau thu hoạch nếu như không được diệt trừ triệt để bằng những loại thuốc có tính chuyên biệt.

Dưa hấu là loại cây trồng có giá trị kinh tế cao và được ưa chuộng nhất trên thế giới, không chỉ vì hương vị ngọt ngào, mát lạnh mà còn vì giá trị dinh dưỡng cao. Tuy nhiên, quá trình trồng và chăm sóc dưa hấu không hề đơn giản, đặc biệt là khi đối mặt với các loài sâu hại chính gây ảnh hưởng nghiêm trọng

Bệnh virus hại tiêu (bệnh tiêu điên) là loại bệnh khá phổ biến đối với cây tiêu trên thế giới, nhất là những vùng có khí hậu nắng nóng, khô hạn. Ở Việt Nam, bệnh tiêu điên khá phổ biến ở các vùng trồng tiêu nhiều năm

Diệt nhiều loại cỏ thuộc cả 3 nhóm hòa bản, cháo chác và lá rộng như: lồng vực (còn gọi là cỏ gạo, kê, mỹ), đuôi phụng, mồm, cháo, chác, bạc bợ, mác, xà bông, cỏ mực, vẩy ốc, rau dừa, rau mương… đặc biệt rất hữu hiệu với cỏ lồng vực nước và lồng vực cạn.

Cỏ ở ruộng lúa gồm nhiều loại như lồng vực, đuôi phụng, cháo, chác, rau mác, rau mương, vảy ốc…Mỗi loại cỏ có sự khác nhau về hình thái, tính thích nghi môi trường sống, sự sinh trưởng và phát triển.

Có khoảng 550 loài vi sinh vật liên quan đến cây cao su. Tuy nhiên, mức độ thiệt hại tùy thuộc vào điều kiện khí hậu và canh tác từng vùng. Ở Việt Nam, có 8 loại bệnh có tầm quan trọng về kinh tế do ảnh hưởng đến sinh trưởng và sản lượng

Cải bắp là một trong những loại rau được thị trường yêu chuộng và tiêu thụ quanh năm, với số lượng lớn. Vì vậy trồng cải bắp thường cho thu nhập kinh tế cao.

Thanh long là một trong những loại cây trồng có giá trị kinh tế cao. Trái thanh long đã được xuất khẩu và được xã hội ưa chuộng sử dụng khá phổ biến dưới dạng quả tươi.

Cây bị héo xanh là bệnh khá phổ biến đối với cây ớt, nhất là ở các vùng có điều kiện thời tiết nóng ẩm. Bệnh héo xanh ớt đặc biệt phổ biến ở các vùng trồng chuyên canh.

  • Trụ sở Chính
  • CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO VỆ THỰC VẬT SÀI GÒN
  • Nguyễn Văn Quỳ, khu phố 1, phường Tân Thuận Đông, quận 7, TP.HCM
  • Mã số thuế: 0300632232
  • Tel: (028) 38 733 295 - 38 732 077
  • Fax: (028) 38 733 003 - 38 733 391
  • Website: www.spchcmc.vn - Email: info@spchcmc.vn
  • Xí nghiệp Bảo vệ Thực vật Sài Gòn
  • XÍ NGHIỆP CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO VỆ THỰC VẬT SÀI GÒN
  • Lô C1-C3 Khu công nghiệp Hiệp Phước, xã Hiệp Phước, huyện Nhà Bè, TP.HCM
  • Tel: (028) 3873 4089 - Fax: (028) 3873 4090
  • Đơn vị trực thuộc
  • Kết nối chúng tôi