Rầy phấn trắng hại lúa
21/06/2023
Huỳnh kim Ngọc và Trần thành Tín Lớp (Class): Insecta (côn trùng). Bộ (Order ): Hemiptera (nửa cánh). Dưới Bộ (Suborder): Sternorryncha. Họ (Family): Aleurodidae (Rầy phấn trắng). Chi/Giống (Genus): Aleurocybotus. Loài (Species): Aleurocybotus indicus (Tên cũ: Vasdavidius indicus) Rầy phấn trắng (Tên khác: Rầy cánh phấn, Bọ phấn trắng), do cơ thể bao phủ một lớp phấn trắng, được ghi nhận dịch hại đầu tiên trên lúa năm 1966 tại Santaram Ấn Độ và sau đó ở các nước Châu phi: Senegal (1977), Nigeria, Niger, Mauritania, gây thất thoát năng suất lên tới 80%. Tại Việt Nam, trước đây, rầy ít thấy xuất hiện và gây hại trên lúa, chỉ phổ biến trên rau màu như ớt, cà, dưa, bầu bí,… Năm 2010 ghi nhận rầy gây hại qui mô lớn ở Long An, An Giang, Tây Ninh, diện tích nhiễm: 15.462 ha và hiện nay có xu hướng lan rộng ở các tỉnh ĐBSCL và ảnh hưởng đến năng suất.
Ghi chú: Rầy phấn trắng lúa, khá giống với Bọ phấn hại ổi (White fly/Aleurodicus dispersus/Hemiptera/Sternorrhyncha), Bọ phấn khoai mì (White fly/Besimia tabaci/Hemiptera/Sternorrhyncha), nhưng khác Họ: Rầy phấn thuộc họ Aleurodidae (Rầy phấn trắng), còn bọ phấn hại ổi, khoai mì thuộc họ white fly ( ruồi trắng).Rầy nhảy trên sầu riêng (Allocaridara malayensis, thuộc họ rầy nhảy (Psillid), bộ cánh đều (Homoptera). Thiệt hại
Ruộng và lúa bị rầy phấn trắng gây hại Rầy phấn trắng gây hại bằng cách chích hút nhựa lá, làm lá vàng vọt (ấu trùng), mặt lá sần sùi ( khảm), lá xoắn hay vặn vẹo, cổ lá co rút (thành trùng), nếu gây hại giai đoạn trổ, lá cờ bị nghẽn, xoắn khiến gié trổ không thoát, nếu trổ thoát, hạt cũng bị lép. Triệu chứng này giống như bệnh lùn xoắn lá do virus, nhưng chưa phát hiện thấy có virus trong lá xoắn (Viện lúa ĐBSCL). Gây hại chủ yếu giai đoạn từ đẻ nhánh, lúc đầu chỉ là một đám nhỏ màu vàng, sau lan rộng ra theo sự phát triển của quần thể, nếu không phòng trị và gặp điều kiện thuận lợi (nắng nóng), sẽ tích lũy mật số và gây hại nặng giai đoạn đòng- trổ. Các giống Jasmin 85, IR 50404… dễ nhiễm. Theo nghiên cứu của Viện lúa ĐBSCL, thí nghiệm trên giống OM 4900, IR 4625, IR 64, ở giai đoạn 30 NSS, lây nhiễm 30 – 40 con/dãnh, ảnh hưởng đến năng suất, nếu mật số lây nhiễm 60 con/dãnh, năng suất giảm từ 23 – 31%, thiệt hại có thể lớn hơn nếu rầy gây hại giai đoạn đòng- trổ. Do giai đoạn trổ, nhụy lúa có màu trắng, nên dễ lầm lẫn với rầy phấn trắng, mặt khác triệu chứng vàng lá lúa giai đoạn này cũng dễ lẫn với bệnh vàng lá chín sớm hay cháy bìa lá, chuẩn đoán sai sẽ khiến thiệt hại nặng hơn. Do rầy có vòng đời tương đối ngắn (khoảng 20 – 22 ngày), đẻ nhiều trứng (100 – 200 trứng), trứng đẻ mặt dưới lá, phun thuốc khó tiếp xúc, rầy phát triển và gây hại mạnh lúc trời nắng nóng, giai đoạn gây hại kéo dài từ đẻ nhánh – đòng, trổ dễ ảnh hưởng đến năng suất nên cần thăm đồng thường xuyên, phát hiện sớm và phòng trị kịp thời. Đặc điểm sinh học
Vòng đời – Trứng – rầy phấn trắng Rầy phấn trắng biến thoái không hoàn toàn. Vòng đời kéo dài khoảng 17 - 24 ngày (ngắn hơn rầy nâu), gồm 3 giai đoạn: Trứng - ấu trùng – thành trùng. Ấu trùng có 4 tuổi, ấu trùng tuổi 4 là nhộng giả. Thành trùng có 2 cặp cánh màu trắng, khi đậu xếp cách như mái nhà, ẩn náu nơi kín gió, kích thước trung bình : 0,98 mm/cái và 0,83 mm/đực, thành trùng mới nở, trong suốt, cánh mỏng manh nên có sức bay yếu (nửa cánh/ Hemiptera), sau đó khi cánh khô, cơ thể phủ lớp phấn trắng, sức bay tốt hơn, khi trời nhiều gió hay bị động, rầy bay úa ra, rầy thường ẩn náu và gây hại mặt dưới lá. Thành trùng (cái) đẻ nhiều trứng: 100 – 240 trứng, trứng đẻ rời rạc hay từng vệt mặt dưới lá gần gân chính, tập trung gần chóp lá, xếp hàng như vẩy cá, trứng có dạng thon dài, mới đẻ có màu trắng, sắp nở chuyển nâu, tỷ lệ sống (trứng – thành trùng) khoảng 70%. Sinh sản đơn tính, cho ra thế hệ sau 100 thành trùng đực (Viện lúa ĐBSCL). Ấu trùng có 3 tuổi. Tuổi 1 chưa có phấn, di chuyển gần gân lá hay chung quanh để chích hút, ít di chuyển do chân chưa phát triển, kéo dài 3 – 4 ngày. Tuổi 2: Lột xác, cơ thể bao phủ lớp phấn mỏng, bám chặt vào biểu bì lá để chích hút, dài 2 – 3 ngày. Tuổi 3 : cơ thể ít thay đổi, không di chuyển, dài 2 – 3 ngày, sau đó lột xác chuyển sang giai đoạn nhộng (giả). Nhộng ( giả) có lớp vỏ cứng, bám chặt vào biểu bì lá, sau 2 – 4 ngày, vũ hóa bay thoát ra ngoài. Nhiệt độ thích hợp cho rầy là 30 độ C, sống và gây hại phổ biến trong mùa khô, trời nắng nóng, cao điểm giai đoạn hạn Bà Chằng (tháng 7-8) ở các tỉnh phía Nam.
Trứng rầy bám mặt dưới lá, là bị khảm và nghẹn đòng Ký chủ phụ Cỏ Lục lông (Chloris barbata), cỏ Chân gà (Dactyloctenium aegyptium). Thiên địch Rầy phấn trắng có nhiều thiên địch ký sinh như Ong ký sinh (Encarsia japonica, E.sophia, E.transversa…), thiên địch ăn mồi như: Bọ rùa 8 chấm (Harmonia octomaculata)… Biện pháp canh tác và mật số bọ phấn - Các giống Jasmin 85, IR 50404, Đài thơm 8, RVT… dễ nhiễm. - Giống OM 4218, nếp IR 4625 ít nhiễm. - Lúa cấy có mật số bọ phấn thấp hơn lúa sạ. - Sạ dầy (150 – 250 kg/ha) cho mật số bọ phấn cao hơn sạ thưa (100 – 120 kg/ha). - Vụ lúa mùa mưa có mật số rầy phấn thấp hơn mùa khô, do nước mưa làm giảm mật số rầy. - Chưa thấy có mối liên hệ giữa việc quản lý nước trên ruộng, cỏ dại, rơm rạ với mật số bọ phấn. Phát hiện - Khua động tán lá xem có rầy phấn bay lên không. - Quan sát mạng nhện trên ruộng, xem có rầy phấn dính vào mạng nhện không. - Quan sát mặt dưới lá lúa xem có trứng rầy đẻ dọc theo gân lá hay không. - Chú ý lúa giai đoạn đẻ nhánh đến đòng- trổ, kiểm tra ruộng lúa có triệu chứng vàng lá để xác định là do bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá, vàng lá chín sớm, cháy bìa lá hay do rầy phấn. - Chú ý các đám ruộng lúa trồng gần vườn ổi, rau dưa, khoai mì… - Thường xuyên thăm đồng các ruộng bị rầy gây hại vụ trước, chú ý ruộng bón thừa đạm, bón đạm muộn, ruộng rậm rạp, phun thuốc trừ sâu sớm
Rầy phấn trắng dính vào mạng nhện Thuốc hóa học - Nghiện cứu cho thấy các thuốc hóa học có gốc Abamectin, Emamectin có thể kiểm soát bọ phấn 65-68%. Các thuốc gốc Pymetrozine (500g/kg) kiểm soát 70,5 – 72,6% khi quan sát 10 NSP (Viện lúa ĐBSCL). Ngoài ra các gốc khác như Imidacloprid, Acetamiprid cũng cho hiệu lực tốt trừ rầy phấn (CABI, IRRI). - Cần lưu ý do cơ thể rầy (thành trùng) bao phủ một lớp phấn trắng, trứng rầy được bọc trong lớp sáp cứng, không thấm nước nên các thuốc có tính tiếp xúc cho hiệu quả không cao bằng thuốc có tác động lưu dẫn, thấm sâu và xông hơi và cần thiết nên pha với chất bám dính hay dầu khoáng SK Enspray 99EC, ngoài ra, phun đúng kỹ thuật cũng giúp tăng hiệu quả phòng trừ. Phòng trị Áp dụng các biện pháp tổng hợp, gồm: - Trồng giống kháng rầy phấn trắng, nhất là các giống có bộ lá đứng thẳng. - Gieo cấy đồng loạt, không sạ, cấy dầy. - Bón phân cân đối, hợp lý, không bón thừa đạm, bón đạm muộn. - Thăm đồng thường xuyên, chú ý giai đoạn đẻ nhánh – đòng, trổ, nhât là ruộng thường bị hại. - Ruộng bị hại sớm, có thể bổ sung thêm phân U rê, DAP và Kali. - Nếu mật số rầy cao vào giai đoạn đòng – trổ (10- 40 rầy trên 30 – 50 bụi lúa) , có khả năng gây hại năng suất, có thể dùng một trong các loại thuốc sau: 1. Gốc Pymetrozine (+ Nitenpyram): Osago 80WG, Sagometro 50WG 2. Gốc Dinotefuran (+ Imidaclorpid): Brimgold 200WP. 3. Gốc Abamectin/Emamectin: Binhtox 3.8EC hay Comda gold 5WG 4. Gốc Chlorpyrifos methyl: Sago super 20EC 5. Trường hợp cần dập dịch tức thời dùng Fenbis 25EC (hiệu lực cao trừ rệp sáp và có tính xông hơi), Sherzol 205EC hay Sec Saigon 25EC Các thuốc trên cần dùng luân phiên và nên kết hợp với dầu khoáng SK Enspray 99EC để gia tăng hiệu quả phòng trừ. Khi phun cần chú ý 1. Nên phun sát mặt lá lúa để diệt rầy trưởng thành, phun đều hai mặt lá, đồng thời hướng đầu vòi phun xuống thấp bên dưới tán lá để rầy dễ trúng thuốc và diệt cả trứng bám mặt dưới lá. Chú ý không phun thuốc khi lúa đang trỗ, nếu cần thiết phun buổi chiều. 2. Chỉnh bét phun mịn hạt và phun đủ lượng nước-thuốc theo khuyến cáo. 3. Nên pha thêm dầu khoáng SK Enspray 99EC (liều pha: 50 – 60 ml dầu khoáng/bình 25L) hay chất bám dính ( Sago bám dính) để đánh tan lớp phấn và kéo dài thời gian tồn lưu trên lá. 4. Nên phun sáng sớm (6- 9 giờ) do rầy còn ướt cánh, bay chậm, không phun khi trời gió to hay sắp mưa. 5. Nên phun đồng loạt để hạn chế rầy phát tán, di chuyển từ ruộng nầy sang ruộng bên cạnh. 6. Nếu lúa chuẩn bị trỗ, bị rầy hại, có thể bổ sung thêm phân bón có chứa U rê, DAP, Kali, nếu lúa giai đoạn mới trổ, trổ đều có thể phun thêm phân bón lá. Tham khảo: 1. Plantwise Knowledge Bank, CABI, IRRI 2. Viên Lúa DBSCL. 3. Luận văn Tiến sĩ của Võ Thị Bích Chi, ĐHNN.Cần Thơ, 2016. 4. Các thông tin các chi cục địa phương.
|
Cỏ mọc ở ruộng lúa gồm nhiều loại như cỏ cháo, chác, mác, mương, lồng vực, đuôi phụng… trong đó cỏ lồng vực và đuôi phụng là 02 đối tượng khó trừ, thường gây hại nghiêm trọng đến năng suất và chất lượng nông sản sau thu hoạch nếu như không được diệt trừ triệt để bằng những loại thuốc có tính chuyên biệt.
Dưa hấu là loại cây trồng có giá trị kinh tế cao và được ưa chuộng nhất trên thế giới, không chỉ vì hương vị ngọt ngào, mát lạnh mà còn vì giá trị dinh dưỡng cao. Tuy nhiên, quá trình trồng và chăm sóc dưa hấu không hề đơn giản, đặc biệt là khi đối mặt với các loài sâu hại chính gây ảnh hưởng nghiêm trọng
Bệnh virus hại tiêu (bệnh tiêu điên) là loại bệnh khá phổ biến đối với cây tiêu trên thế giới, nhất là những vùng có khí hậu nắng nóng, khô hạn. Ở Việt Nam, bệnh tiêu điên khá phổ biến ở các vùng trồng tiêu nhiều năm
Diệt nhiều loại cỏ thuộc cả 3 nhóm hòa bản, cháo chác và lá rộng như: lồng vực (còn gọi là cỏ gạo, kê, mỹ), đuôi phụng, mồm, cháo, chác, bạc bợ, mác, xà bông, cỏ mực, vẩy ốc, rau dừa, rau mương… đặc biệt rất hữu hiệu với cỏ lồng vực nước và lồng vực cạn.
Cỏ ở ruộng lúa gồm nhiều loại như lồng vực, đuôi phụng, cháo, chác, rau mác, rau mương, vảy ốc…Mỗi loại cỏ có sự khác nhau về hình thái, tính thích nghi môi trường sống, sự sinh trưởng và phát triển.
Có khoảng 550 loài vi sinh vật liên quan đến cây cao su. Tuy nhiên, mức độ thiệt hại tùy thuộc vào điều kiện khí hậu và canh tác từng vùng. Ở Việt Nam, có 8 loại bệnh có tầm quan trọng về kinh tế do ảnh hưởng đến sinh trưởng và sản lượng
Cải bắp là một trong những loại rau được thị trường yêu chuộng và tiêu thụ quanh năm, với số lượng lớn. Vì vậy trồng cải bắp thường cho thu nhập kinh tế cao.
Thanh long là một trong những loại cây trồng có giá trị kinh tế cao. Trái thanh long đã được xuất khẩu và được xã hội ưa chuộng sử dụng khá phổ biến dưới dạng quả tươi.
Cây bị héo xanh là bệnh khá phổ biến đối với cây ớt, nhất là ở các vùng có điều kiện thời tiết nóng ẩm. Bệnh héo xanh ớt đặc biệt phổ biến ở các vùng trồng chuyên canh.
Nấm hồng thường xuất hiện gây hại phổ biến trên các vườn cà phê trong mùa mưa, và thường thấy rõ vào các tháng cuối mùa mưa. Bệnh gây chết cành, khô quả, làm ảnh hưởng nặng tới cấu trúc tán cây và năng suất, nếu không chú ý phòng trừ.
- Trụ sở Chính
- CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO VỆ THỰC VẬT SÀI GÒN
- Nguyễn Văn Quỳ, khu phố 1, phường Tân Thuận Đông, quận 7, TP.HCM
- Mã số thuế: 0300632232
- Tel: (028) 38 733 295 - 38 732 077
- Fax: (028) 38 733 003 - 38 733 391
- Website: www.spchcmc.vn - Email: info@spchcmc.vn
- Xí nghiệp Bảo vệ Thực vật Sài Gòn
- XÍ NGHIỆP CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO VỆ THỰC VẬT SÀI GÒN
- Lô C1-C3 Khu công nghiệp Hiệp Phước, xã Hiệp Phước, huyện Nhà Bè, TP.HCM
- Tel: (028) 3873 4089 - Fax: (028) 3873 4090
- Đơn vị trực thuộc
-
- Liên kết nhanh
- Trang chủ
- Về chúng tôi
- Cơ hội nghề nghiệp